I. TÊN GỌI DI TÍCH:
    Di tích lịch sử  
Mộ và Nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án 
Thôn Phương Triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh 
II. ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH:
1.Địa điểm di tích:
 Tên cũ    
– Thôn Cống (Triện Quang), Xã Phương Triện, Tổng Nhân Hữu, Huyện Gia Bình, Phủ Thuận Thành, Tỉnh Bắc Ninh 
 Tên mới hiện nay  
 – Thôn Phương Triện, Xã Đại Lai, Huyện Gia Bình, Tỉnh Bắc Ninh 
Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên trong công trình nghiên cứu Địa lý hành chính Kinh Bắc cho biết thời thuộc Tần (214-209 TCN) Bắc Ninh (trong đó có vùng đất Gia Bình) thuộc Tượng Quận.
Theo Đường thư thời thuộc Đường (Thế kỷ VIII) đất Gia Bình là địa phận của hai huyện An Bình và Nam Định.
Theo Địa danh, địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử (Bảo tàng Bắc Ninh – xuất bản năm 2010)cho biết, trải qua các thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê sáp nhập hai huyện An Bình và Nam Định thành một huyện lấy tên là An Định thuộc lộ Bắc Giang. Đầu đời Lê Quang Thuận (1460-1469) huyện An Định được đổi tên là huyện Gia Định và trực thuộc phủ Thuận An.
Theo Văn hiến Kinh Bắc tập II (Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Bắc Ninh – xuất bản năm 2002 ) có ghi:
+ Năm Minh Mệnh thứ nhất (1822) huyện Gia Định được đổi thành huyện Gia Bình có 8 tổng (tổng Tam Á, tổng Bình Ngô, tổng Đông Cứu, tổng Tiêu Xá, tổng Xuân Lai, tổng Quỳnh Bội, tổng Đại Lai, tổng Vạn Ty) gồm 66 xã. Xã Bảo Triện (nay là Phương Triện có hai thôn Cống – Triện Quang và Trung) khi đó là một trong 14 xã, thuộc tổng Đại Lai , huyện Gia Bình ( tổng Đại Lai gồm 14 xã: xã Đại Lai, xã Nhân Hữu, xã Gia Phú, xã Bồng Trì (làng Đìa), xã Phương Độ, xã Phùng Xá (làng Bùng), xã Huề Đông, xã Bảo Triện, xã Ngô Cương (làng Ngò), xã Hương Triện, xã Địch Trung, xã Cẩm Xá (làng Vối), xã Ngọc Triện, Bái Giang phường).
+ Năm Thành Thái 17 (1905) tổng Đại Lai được chia làm hai tổng Đại Lai và Nhân Hữu.
Căn cứ vào các tài liệu (Bản Khoán lệ xã Phương Triện -1906; bản kê khai Thần tích – Thần sắc -1938) còn lưu giữ tại địa phương cho biết ít nhất Phương Triện thuộc tổng Nhân Hữu từ năm 1906-1938 (Theo sách Địa danh, địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử (bảo tàng Bắc Ninh xuất bản – 2010) Phương Triện là một trong 11 xã phường của tổng Đại Lai từ sau năm 1905).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước tổ chức lại đơn vị hành chính, xoá bỏ cấp tổng, phủ; đơn vị hành chính cấp xã được mở rộng hơn. Các xã của tổng Đại Lai cũ được sáp nhập với nhau để thành lập đơn vị xã mới. Năm 1946 xã Vạn Tư, Vạn Tải (của tổng Vạn Tư cũ) hợp nhất thành xã Vạn Liên (Tổng Vạn Tư có 12 xã: xã Vạn Tư, xã Vạn Tải, xã Bà Dương, xã Tiểu Than (làng Dựng), xã Đại Than, xã Văn Than (làng Nái), xã Kênh Phố, xã Phù Than, xã Cao Trụ, xã Cao Thọ (làng Chỗ), xã Mỹ Lộc, Bà Dương sở). Các xã Đại Lai, Địch Trung, Huề Đông (của tổng Đại Lai cũ) hợp nhất thành xã Thái Lai. Xã Phương Triện và Ngọc Triện (của tổng Đại Lai cũ) hợp nhật thành xã Bảo Triện;
Năm 1949, ba xã Vạn Niên, Thái Lai và Bảo Triện hợp nhất thành xã Thái Bảo. Khi ấy, xã Thái Bảo gồm có 8 thôn (Vạn Tư, Vạn Tải, Phương Triện, Bảo Ngọc, Đại Lai, Địch Trung, Huề Đông và Ấp Lai (ấp này mới được thành lập năm 1942)). Như vậy, Phương Triện là một trong tám thôn của xã Thái Bảo, huyện Gia Bình.
Tháng 8/1950 để phù hợp với tình hình kháng chiến, huyện Gia Bình sáp nhập với huyện Lương Tài lấy tên là huyện Gia Lương, nơi đây thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1955, sau khi thực hiện chính sách giảm tô và cải cách ruộng đất nằm đáp ứng nhu cấu phát triển kinh tế của địa phương, một số thôn đã có sự thay đổi. Xã Thái Bảo tách thành hai xã: Thái Bảo và Tân Lập, Phương Triện thuộc xã Tân Lập huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27/10/1962 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II ra Nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Ngày 01/4/1963 tỉnh Hà Bắc chính thức thành lập. Phương Triện thuộc xã Tân Lập huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc.
Ngày 04/6/1969 Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 84/CP hợp nhất hai huyện Gia Lương và Thuận Thành lấy tên là huyện Gia Thuận. Các xã của huyện Gia Bình (huyện Gia Bình cũ gồm các xã: xã Song Giang, xã Giang Sơn, xã Tân Lập, xã Vạn Ninh, xã Cao Đức, xã Thái Bảo, xã Bình Dương, xã Lãng Ngâm, xã An Bình, xã Thịnh Đức, xã Đại Thành, xã Quỳnh Phú, xã Đông Cứu, xã Nhân Thắng) trực thuộc huyện Gia Thuận. Phương Triện thuộc xã Tân Lập huyện Gia Thuận, tỉnh Hà Bắc
Năm 1971, xã Tân Lập đổi tên thành xã Đại Lai. Phương Triện thuộc xã Đại Lai huyện Gia Thuận, tỉnh Hà Bắc.
Ngày 19/01/1974 Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 17-CP phê chuẩn đề nghị của UBND tỉnh Hà Bắc tách huyện Gia Thuận thành huyện Gia Lương và Thuận Thành. Phương Triện thuộc xã Đại Lai huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc.
Ngày 6/11/1996 Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 10 phê chuẩn việc tách tỉnh Hà Bắc thành Bắc Ninh và Bắc Giang. Ngày 09/8/1999 Chính phủ ban hành nghị định số 68/1999/NĐ-CP tách huyện Gia Lương thành hai huyện Gia Bình, Lương Tài. Phương Triện thuộc xã Đại Lai huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh từ đó đến nay không có gì thay đổi.
Hiện tại thôn Phương Triện là một trong năm thôn, ấp của xã Đại Lai và có vị trí địa lý như sau:
- Phía Bắc giáp thôn Huề Đông (cùng xã)
 - Phía Nam giáp Thôn Hương Triện, xã Nhân Thắng
 - Phía Đông thôn Bảo Ngọc, xã Thái Bảo
 - Phía Tây giáp thôn Xuân Lai, xã Xuân Lai.
 
Nhà thờ Tiến sỹ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án (sau đây được gọi là Nhà thờ 4 tiến sỹ họ Trần Danh) nằm ở giữa làng Phương Triện, một miền quê trù mật, giầu truyền thống lịch sử, văn hoá và khoa bảng.
2.Đường đến di tích:
Về thăm di tích Mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án (bốn Tiến sỹ họ Trần Danh), quý khách có thể đi bằng nhiều hướng với nhiều phương tiện giao thông đường bộ, đường thuỷ rất thuận tiện…
–Về đường bộ: Từ thành phố Bắc Ninh theo quốc lộ 38, qua Cầu Hồ đến ngã tư Đông Côi, rẽ trái theo đường tỉnh lộ 282, qua ngã tư Đông Bình (thị trấn Gia Bình) đến trung tâm Ngụ (khoảng 13km), rẽ trái vào đường liên xã 3 km là đến thôn Phương Triện và di tích.
Hoặc từ thành phố Bắc Ninh theo quốc lộ 38, qua Cầu Hồ đến ngã tư Đông Côi, rẽ trái vào đường 282 đi khoảng 9 km đến ngã tư Đông Bình (thị trấn Gia Bình) theo đường Kênh Bắc 8 km là đến thôn Phương Triện và di tích.
Cũng có thể đi từ thủ đô Hà Nội, theo quốc lộ 5 đến cây số 38 (Quán Gỏi), rẽ trái vào đường 282 đến ngã tư Đông Bình (thị trấn Gia Bình) và đi như chỉ dẫn như trên là đến di tích.
– Về đường thủy: Từ Hà Nội xuôi theo dòng sông Đuống, qua các tích tích nổi tiếng của tỉnh Bắc Ninh như: chùa Bút Tháp, chùa Dâu, Lăng Kinh Dương Vương, làng Tranh Đông Hồ, qua cầu Hồ đến bến đò Đại Lai, lên đê đi khoảng 2 km là đến di tích.
III. PHÂN LOẠI DI TÍCH:
Căn cứ vào các kết quả khảo sát, nghiên cứu về di tích để phân loại di tích theo quy định tại điều 11, Nghị định số 98/2010/ NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010, về việc quy định chi tiết một số điều của Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá, chúng tôi xác định di tích Mộ và nhà thờ Tiến sỹ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án thuộc loại hình Di tích Lịch sử.
IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH:
1.Sự kiện lịch sử:
Làng Phương Triện – Đại Lai là vùng đất cổ nằm phía đông nam tỉnh Bắc Ninh có địa hình giống con voi chầu. Từ rất sớm nơi đây đã có con người đến sinh cơ lập nghiệp, lâu dần tạo thành những cộng đồng làng xóm đông vui, được cố kết và mở rộng.
Nằm ven sông Đuống, mảnh đất nơi đây vốn được bồi tụ bởi hai con sông là sông Lai (nay chỉ còn dấu tích) và sông Thiên Đức (sông Đuống) nên đất đai màu mỡ, thuận tiện cho việc phát triển nông nghiệp cả về trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài sản xuất nông nghiệp, từ lâu đời người dân Phương Triện còn có nghề làm quang tre nổi tiếng trong cả nước, chính vì vậy mà làng còn được gọi là làng Triện Quang. Xưa kia, làng còn có lệ tế ông tổ nghề hàng năm ở gian bên của đình làng. Người làm quang tre vịnh thơ:
“Bước dọc rồi ra lại bước ngang
 Lạ lùng ai biết cái nghề quang 
 Vòng trôn ngoăn ngoắt ngoan tay ngọc 
 Vào cổ khoan thai nhận gót vàng 
 Nắn nót là nhờ con mắt thép 
 Nẩy nung sẵn có cái dao gang 
 Xong rồi sắp đủ thành trăm chục 
 Khói toả màu tươi, mới đắt hàng” 
Bài thơ trên đã miêu tả được toàn bộ công việc làm quang tre từ khâu sản xuất đến bán sản phẩm. Nghề làm quang tre rất nặng nhọc, vất vả nhưng trong những lúc nông nhàn cũng đã góp phần tăng thu nhập cho người dân nơi đây.
Nằm giữa một vùng quê có truyền thống hiếu học và khoa bảng, nhân dân Phương Triện – Đại Lai rất coi trọng việc học, được thể hiện qua số ruộng mà các làng dành cho việc học hành gọi là ruộng học điền. Làng Phương Triện xưa là một làng có nhiều văn nhân đỗ đạt cao nên có câu:
“Bao giờ chùa Địch hết cây
 Sông Lai hết nước Triện dày hết quan” 
Theo sách Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh thời kỳ phong kiến toàn huyện Gia Bình có 32 vị Tiến sỹ, riêng làng Phương Triện có 6 vị, chiếm 1/5 tổng các vị đại khoa toàn huyện đó là (ghi theo năm các khoa thi):
1.1- Phạm Công Thiện (1649-1713) năm 13 tuổi đỗ Hương cống, năm 32 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân đệ nhất danh (Hoàng giáp) khoa Canh Thân niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1680) đời vua Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Tham chính sứ Thanh Hoá;
1.2- Trần Phụ Dực (1655-1713) năm 29 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hoà 4 (1683) đời vua Lê Hy Tông. Ông từng đảm nhiệm các chức vụ như Giám sát đạo Hải Dương, Giám sát ngự sử đạo Sơn Tây, Hiến sát sứ Hưng Hoá, Cấp sự trung Lễ khoa, Đốc đồng Sơn Nam;
1.3- Phạm Khiêm Ích (1679-1741) năm 32 tuổi đỗ Đình nguyên. Đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) đời Lê Dụ Tông. Ông từng qua các chức vụ như Thượng thư bộ Hình, Hộ bộ Tả thị lang, Đông các đại học sỹ, Thượng thư bộ Binh gia phong Thiếu bảo, thượng thư bộ Lễ, năm Quý Mão (1723) được triều đình cử đi sứ nhà Thanh, về sau được thăng lên chức Thái tể;
1.4- Trần Danh Ninh (1703-1766) năm 29 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Ông từng kinh qua rất nhiều các chức vụ quan trọng như Quốc tử giám tế tửu, Đông các đại học sỹ tước Hầu, Tả thị lang bộ Hình kiêm Sử quán Tổng tài;
1.5- Trần Danh Lâm (1705-1777) đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Ông được triều đình giao cho đảm trách rất nhiều các chức vụ quan trọng như Thị lang bộ Binh, Ngự sử đài đô ngự sử, Thượng thư bộ Công. Ông có nhiều các tác phẩm có giá trị để lại cho đời sau như: Hoan Châu phong thổ thoại…;
1.6- Trần Danh Án (1754-1794) năm 34 tuổi đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời vua Lê Mẫn Đế. Ông làm quan dưới triều Lê giữ chức Phó đô ngự sử. Ông là vị quan tuyệt đối trung thành với nhà Lê, khi nhà Lê mất ông trở về quê ở ẩn, không chịu ra làm quan cho triều đình Tây Sơn. Sau này ông được liệt thờ ở đền Lê tiết nghĩa.
Trải thăng trầm của lịch sử, thời gian và chiến tranh đến nay Phương Triện vẫn giữ được hệ thống các di tích lịch sử văn hoá, các di tích tâm linh tín ngưỡng của dân làng như đình làng Phương Triện, chùa làng “Thanh Lương tự” một trong những danh lam cổ tự được xây dựng từ thế kỷ XVII. Theo văn bia “Thanh Lương tự bi”, khắc vào năm Tân Mùi, niên hiệu Chính Hoà 12 (1691) còn lưu tại chùa Thanh Lương cho biết “…Người xưa lấy chữ Bảo đặt tên cho làng vì đây là nơi cổ địa danh lam có tiếng trong thiên hạ có phật điện, tiền đường rộng rãi…”. Hội chùa được tổ chức rất long trọng hàng năm vào ngày 15/4 (âm lịch):
“Hàng năm đến rằm tháng tư
 Không xem hội Triện cũng hư mất đời” 
Sinh sống ở làng Phương Triện hiện có 10 dòng họ, các dòng họ trong thôn đều có nhà thờ họ như: họ Trần Danh; họ Đoàn Xuân; họ Đoàn Văn; họ Phạm Văn; họ Lê Hữu; họ Nguyễn Huy; họ Nguyễn Văn; họ Phan; họ Bùi; họ … Hàng năm vào ngày giỗ tổ con cháu toàn gia tộc lại tề tựu đông đủ cùng nhau ôn lại truyền thống tự hào của gia tộc. Trong số đó, không thể không nhắc tới truyền thống hiếu học và khoa bảng của dòng họ Trần Danh, một dòng họ nổi tiếng thời Lê Trung Hưng.
2. Sơ lược về dòng họ Trần tại thôn Phương Triện và các vị được thờ trong nhà thờ họ:
Căn cứ vào gia phả và bia “Truy viễn đàn bi ký” (đặt trong nhà thờ họ Trần tại thôn Phương Triện) được lập vào tháng 7 năm Tự Đức 12 (1861) cho biết họ Trần vốn thuộc dòng dõi Hoàng tộc, quê ở thôn Khang Kiện, xã Tức Mặc, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định, nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV vì lý do thời cuộc cụ Thuần Đạo đã di cư về thôn Cống, xã Bảo Triện, huyện Gia Định, xứ Kinh Bắc và từ đó ở đây có dòng họ Trần, cụ Thuỷ tổ dòng họ Trần tại thôn Phương triện bắt đầu tính từ cụ Thuần Đạo. Bia “Truy viễn đàn bi ký” mở đầu ghi rất rõ “Thế hệ họ Trần ta dòng dõi ở Tức Mặc, hậu duệ của hoàng gia họ Trần. Hiển tổ khảo đời thứ 10 ( Tức đời thứ nhất của họ Trần Phương Triện theo cách tính hiện nay) tên hiệu Thuần Đạo phủ quân, bói xem ở ấp Bảo Triện, mở đầu của họ ta, táng tại Đường Máng, giỗ ngày 20 tháng 8…”. Từ đó đến nay, dòng họ Trần – Phương Triện phát triển và kế nghiệp được 18 đời (tính từ đời thứ nhất – cụ Thuần Đạo theo cách tính trên), trở thành một dòng họ lớn và có tiếng là hiếu học – khoa bảng trong vùng. Việc học hành khoa cử của dòng họ bắt đầu phát triển từ rất sớm (Để thuận tiện cho việc theo dõi và phù hợp với các tính đời của dòng họ Trần thôn Phương triện đang tính theo Gia Phả của dòng họ Cụ Thuần Đạo phủ quân được tính là đời thứ nhất về lập nghiệp tại thôn Phương Triện) sơ lược gia phả dòng họ Trần thôn Phương triện được khái quát như sau:.
2.1 Hiển tổ khảo đời thứ nhất: Tên hiệu Thuần Đạo phủ quân, cụ sinh sống và lập nghiệp tại thôn Phương Triện, Cụ sinh được 02 người con trai là lấy tên hiệu là Phúc Tể và Phúc Nham phủ quân
2.2 Hiển tổ khảo đời thứ 2: Hai người con trai được
2.2.1 Con trai Trưởng là Cụ Phúc Tể cụ sinh sống tại thôn Trung (theo trang 1 và 2 của tài liệu này) ngày xưa thôn Cống (Phương Triện) và thôn Trung (Bảo Ngọc) thuộc xã Bảo Triện. Ngày nay là thôn Trung đổi tên thành thôn Bảo Ngọc, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay hậu duệ của cụ tại thôn này rất đông con cháu.
2.2.2 Con trai thứ hai hiệu Phúc Nham phủ quân, được phong tặng là Vũ huân tướng quân, Thần vũ tứ vệ quân vụ sự, Tham đốc, tước Dụ Trạch hầu. Cụ bà là Vương Thị hiệu là Từ Đức, được phong tặng là Chính phu nhân, sau là vương sư của bản thôn. Hai Cụ lập nghiệp tại xã Bảo Triện nay là thôn Phương Triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Hai cụ sinh được 2 người con trai.
2.3 Hiển tổ khảo đời thứ 3: Có 02 con trai là:
2.3.1 Con trai trưởng của cụ Phúc Nham, tên húy là Tể, hiệu Phúc Thọ phủ quân, được phong tặng Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Cẩm y vệ, tước Thụy Tùng bá; Cụ sinh được 01 người con tên húy là Trần Danh Huyên.
2.3.2 Con trai thứ hai của cụ là Phúc Nham, hiệu là Danh Tướng, không có con nối dõi.
2.4 Hiển tổ khảo đời thứ 4: tên húy là Huyên, tên hiệu Phúc Hiền phủ quân đỗ tú tài là Phủ hiệu hiệu sinh, được phong tặng là Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Thái Nguyên đẳng xứ, Tán trị thừa chánh xứ tự, Thừa chánh sứ, tước Thùy Trạch bá; Cụ sinh được 01 người con trai tên Húy là Trần Danh Chữ.
2.5 Hiển tổ khảo đời thứ 5: tên húy là Chữ, tự là Phụ Phượng. Cụ được phong tặng Đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, Quang lộc tự khánh. Sau được gia phong Đông các đại học sĩ, tước Di trạch bá, tên thụy Phúc Từ, hiệu Vô vi phủ quân. Cụ bà được phong tặng là Tự phu nhân, Bùi thị, tên húy là Côn, hiệu Từ Ôn. Hai cụ sinh được 3 người con trai cùng đỗ Hương cống khoa Quý Sửu (1673):
2.6 Hiển thổ khảo đời thứ 6: Đời thứ 6 có 03 Cụ với xuất thân như sau:
2.6.1 Con trưởng tên húy là Trạm (cụ Long Hưng) làm chức Quốc tử giám giám sinh; Hiện nay chi cụ Long Hưng các con cháu hậu duệ của Cụ đang sinh sống ở 02 nơi; Phần đông đang sinh sống tại thôn Thiên Đức, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; một nhánh các con cháu của cụ đang sinh sống tại xã Hiền Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
2.6.2 Con thứ tên húy là Trung (cụ Danh Trung) làm tri huyện huyện Đại Từ; hiện nay các hậu duệ của cụ gồm 02 ngành:
2.7.2.1 Ngành ở tại thôn Phương triện hiện nay là ngành Ông Trần Danh Đẩu là Trưởng nghành với 04 hộ gia đình và 06 suất đinh;
2.7.2.2 Ngành ở Thái Nguyên, do thời cuộc bấy giờ nhánh của dòng họ ở Thái Nguyên đổi thành họ Lê, hiện nay ngành này vẫn lấy họ là Lê Khắc, hiện đang sinh sống tại các thôn Xóm Bến xã Đắc Sơn; Làng Đanh xã Thành Công; Xã Phúc Thuận; xã Vạn Phái đều thuộc huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên với khoảng 124 hộ gia đình, với khoảng 260 suất đinh;
2.6.3 Con út là Cao tổ Diễn quận công (cụ Phụ Dực) cụ Phụ Dực dự thi Hội và đỗ Tiến sỹ, sự nghiệp quan trường của dòng họ bắt đầu phát triển vẻ vang từ đây. Với ba đời liên tiếp đỗ đại khoa, có 4 người đỗ Tiến sỹ (trong đó có hai người đỗ Hoàng Giáp), gần 70 người đỗ cử nhân và tú tài: được mệnh danh là gia đình khoa bảng. Cụ Trần Phụ Dực sinh được 11 người con trai, các con của Cụ phân theo các nghành hiện nay như sau:
2.7.3.1 Con trưởng tên húy là Trần Danh Thực là nho sinh, hiện nay hậu duệ của Cụ đang sinh sống tại thôn Phương triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, chi nhà ông Trần Danh Ngột hiện nay là bác Trần Danh Thạc.
2.7.3.2 Con thứ tên Trần Danh Quê (Khuê) nho sinh Chiêu Văn Quán, hiện nay chi của cụ không còn người nối dõi.
2.7.3.3 Con thứ tên húy là Trần Danh Vũ nho sinh huyện thừa, hiện nay hậu duệ của Cụ đang sinh sống tại thôn Phương triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, chi nhà ông Trần Danh Nuôi.
2.7.3.4 Con thứ tên húy là Trần Danh Trí nho sin huyện thừa, hiện nay hậu duệ của Cụ đang sinh sống tại thôn Phương triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, chi nhà ông Trần Danh Thuận.
2.7.3.5 Con thứ tên húy là Trần Danh Lý (Liêu) làm Binh bộ lang trung, hiện nay hậu duệ của Cụ khôn còn người nối dõi.
2.7.3.6 Con thứ tên húy là Thái Nho sinh Điện tiền câu khể, hiện nay hậu duệ của Cụ khôn còn người nối dõi.
2.7.3.7 Con thứ tên húy là Ninh đỗ Hoàng giáp Lại bộ thượng thư Lễ bộ Thượng thư, hiện nay hậu duệ của Cụ là chi nhà ông Trần Danh Trước con trai là Trần Danh Sáng (hiện đang sinh sống tại Hà Nội); Ngành này hiện nay có 02 nhánh: Nhánh 1 phần đông đang sinh sống tại thôn Phương triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, là ngành các ông Trần Danh Tiến; Trần Danh Toản và Trần Danh Thống ở thôn Phương Triện; Nhánh 2 hiện nay đang sinh sống tại Xã Yên Cư, huyện Gia Lộc, Tỉnh Hải Dương cũng rất đông Con cháu.
2.7.3.8 Con thứ tên húy là Trần Danh Lâm, đỗ Tiến sĩ làm Hình bộ Thượng thư, bộ Công thượng thư, hiện nay hậu duệ của Cụ đang sinh sống tại thôn Phương triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, ngành nhà ông Trần Danh Hoành.
2.7.3.9 Con thứ tên húy là Trần Danh Gia là Nho sinh trúng thức Lễ bộ lang trung, hiện nay hậu duệ của Cụ đang sinh sống tại thôn Phương triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, chi nhà ông Trần Danh Huy (Cụ Nuôi).
2.7.3.10 Con thứ tên húy là Trần Danh Quý là Nho sinh trúng thức, hiện nay hậu duệ của Cụ khôn còn người nối dõi.
2.7.3.11 Con út tên húy là Ngung đỗ cử nhân, giám sát đô ngự sử, được vua đặt tên thụy là Cao Sơn, cụ sinh ra và lớn lên ở quê mẹ Thiện Tâm trang, huyện Tiên Nữ, nay là thôn Thiện Phiến, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên.
Hiện nay nhà thờ họ Trần tại thôn Phương Triện thờ các Cụ từ đời thứ nhất đến đời thứ 6, cùng 04 vị Tiến sĩ là những người đỗ đạt cao của dòng họ. Đến thời điểm hiện nay dòng họ Trần có 18 đời sinh sống tại vùng đất Kinh Bắc và các địa phương trên khắp cả nước. Hàng năm đến ngày giỗ họ (nhằm vào đúng tiết Đông Chí) các con cháu ở khắp nơi đều tập trung về nhà thờ họ để dự lễ cúng tế các cụ tiền bối trong dòng họ tại nhà thờ họ tại thôn Phương Triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, nghi lễ cúng tế trong nhà thờ họ vẫn được các con cháu duy trì theo đúng nghi lễ đã được ghi trong Gia phả của dòng họ. Hiện tại hậu duệ của dòng họ còn các đời thứ 14, 15, 16, 17, 18 cùng sinh sống tại nhiều địa phương trên khắp các địa phương của nước Việt Nam.
3. Thân thế và sự nghiệp của 4 vị đại khoa dòng họ Trần ở làng Phương Triện được tóm tắt như sau:
3.1 Tiến sỹ Trần Phụ Dực (1655-1713):
Theo gia phả dòng họ và bia đá “Trần quận công từ bi ký” khắc năm Tân Dậu niên hiệu Tự Đức (1861) còn lưu giữ được tại địa phương cho biết ông sinh giờ Thân ngày mùng 7 tháng 11 năm Ất Mùi niên hiệu Thịnh Đức (1655), người xã Bảo Triện, huyện Gia Định, nay thuộc Phương Triện, là con thứ ba của cụ Trần Phụ Phượng (đời thứ 5), húy là Truyền, tự là Phụ Dực, xuất thân từ giám sinh. Ông là cha của Tiến sĩ Trần Danh Ninh, Tiến sĩ Trần Danh Lâm và là ông nội của Tiến sĩ Trần Danh Án.
Năm 16 tuổi theo học ở phủ, 19 tuổi cùng 2 anh nhận hương giải. Năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa năm thứ 4 (1683), triều đình tổ chức thi Đình, Trần Phụ Dực đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (Tiến sĩ). Sau khi đỗ, ông được bổ nhiệm nhiều chức quan trọng trong triều cũng như ngoài trấn, như Giám sát ngự sử, Tư huấn ở Chiêu Văn quán, Cấp sự trung Lễ khoa (có phẩm hàm chánh Bát phẩm), Giám sát ngự sử Hải Dương và Sơn Tây (chánh Thất phẩm), Hiến sát sứ Hưng Hóa (chánh Lục phẩm), Đốc đồng Sơn Nam, Tham chính Lạng Sơn (tòng Tứ phẩm).
Trên lĩnh vực sử học, Trần Phụ Dực đã tham gia biên soạn bộ quốc sử của triều đình nhà Lê. Năm 1697, vua Lê Hy Tông và chúa Trịnh Căn sai Lê Hy cùng 13 người biên soạn và bổ sung vào bộ Đại Việt sử ký toàn thư, chép tiếp từ năm đầu đời vua Lê Huyền Tông (năm 1663) đến năm cuối đời vua Lê Gia Tông (năm 1675). Bộ Đại Việt sử ký toàn thư chúng ta đang sử dụng hiện nay là thành quả của nhiều nhà sử học qua các thời kỳ lịch sử, trong đó có phần đóng góp của Tiến sĩ Trần Phụ Dực.
Trong gia phả của dòng họ có đoạn ghi chép về “Bản xã tôn thần duệ hiệu”, cho biết Trần Phụ Dực còn được phối thờ ở đình làng cùng ba vị Thành hoàng làng là Ngọc Hồ đại vương; Chiêu Minh đại vương, Cung Mục đại vương. Đặc biệt vì có công lao trong việc giáo dục, răn dạy con cháu thành đạt nên ông được phong tặng chức Hữu Thị lang bộ Lễ (tòng Tam phẩm), Đô ngự sử (Chánh Tam phẩm), vinh phong làm Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, tước Diễn Quận công.
Tiến sĩ Trần Phụ Dực sinh được 11 người con trai. Con trưởng tên húy là Thực là nho sinh, con thứ tên Khuê nho sinh Chiêu Văn Quán, con thứ tên húy là Vũ nho sinh huyện thừa, con thứ tên húy là Trí nho sin huyện thừa, con thứ tên húy là Liêu làm Binh bộ lang trung, con thứ tên húy là Thái Nho sinh Điện tiền câu khể, con thứ tên húy là Ninh đỗ Hoàng giáp Lại bộ thượng thư Lễ bộ Thượng thư, con thứ tên húy là Lâm, đỗ Tiến sĩ làm Hình bộ Thượng thư, bộ Công thượng thư, con thứ tên húy là Gia là Nho sinh trúng thức Lễ bộ lang trung. Con thứ tên húy là Quý Nho sinh trúng thức, con út tên húy là Ngung đỗ cử nhân, giám sát đô ngự sử, được vua đặt tên thụy là Cao Sơn, cụ sinh ra và lớn lên ở quê mẹ Thiện Tâm trang, huyện Tiên Nữ, nay là Thiện Phiến, Phù Tiên, Hưng Yên. Con gái 7 người, con gái trưởng tên húy là Vinh, con thứ hai húy Sâm, con gái thứ ba húy Phương, con gái thứ tư húy Bàng, con gái thứ năm húy Oanh, con gái thứ sáu húy là Điềm, con gái thứ bẩy húy là Đạm. Đạo đức văn chương nối đời tông sư, thủy tổ thi thư lễ nhạc
Trần Phụ Dực được người đương thời đánh giá là người “…khuôn mẫu trong đời văn chương, đạo đức, làm quan thanh liêm, không mua bán tài sản, chuyên tu nhân tích đức nên đã gợi mở nền móng cho sự phát triển đời sau…” (Trích nội dung tấm bia mộ của ông tại thôn Phương Triện). Tên tuổi của ông được sử sách lưu danh, được khắc trong Văn bia đề danh tiến sỹ khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683) đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội và Văn bia đề danh tiến sĩ từ khoa Bính Tuất (1645) đến khoa Giáp Tuất (1694) đặt tại Văn miếu Bắc Ninh.
3.2 Tiến sĩ Trần Danh Ninh (1703-1767):
Trần Danh Ninh, húy là Hoành, tự là Thành, sinh vào giờ Tý ngày mùng 3 tháng 7 năm Quý Mùi, niên hiệu Chính Hoà 24 (1703), trong một gia đình dòng dõi Hoàng tộc nhà Trần. Cụ là con của Tiến sĩ Trần Phụ Dực và là anh của Tiến sĩ Trần Danh Lâm. Nội dung tấm bia “Đề danh tiến sĩ khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh năm thứ 3 (1731)” cho biết: Khoa thi này có 12 người đỗ, người anh Trần Danh Ninh đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và người em đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Tiến sĩ). Đây là niềm vinh dự, tự hào to lớn đối với dòng tộc Trần Danh và mảnh đất Gia Bình, Bắc Ninh nói riêng, với lịch sử giáo dục và khoa cử Nho học thời phong kiến của nước nhà nói chung.
Sau khi thi đỗ cụ được bổ làm quan, hoạn lộ của Hoàng giáp Trần Danh Ninh rất hanh thông. Cụ từng giữ nhiều chức vụ quan trọng, là một vị quan văn võ toàn tài.
Về văn: Năm 21 tuổi thi hương trúng tứ trường, khảo thí đều đạt loại ưu. Năm Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 4 (1731) 29 tuổi thi Hội đỗ Tiến sĩ đệ nhị giáp, được bổ làm Hàn Lâm Hiệu Lý. Năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức 4 (1735) làm Đốc đồng tỉnh Sơn Tây rồi được triệu vào Kinh làm Thiêm Sai phủ liêu tri công phiên bộ Công, thăng Hàn lâm viện đãi chế. Năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) được cử làm Hiến sát sứ Hải Dương rồi vào kinh làm Thiêm Sai Bộ Lễ, thăng Đông các Hiệu thư. Năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu 4 (1738) thăng Hàn lâm Viện Thị thư. Năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Hưng (1740) thăng Hàn Lâm viện Thị giảng, được cử làm Nhập thị Bồi tụng, làm công việc sự vụ trong Chính phủ biểu chấp đài cương (bên Phủ Chúa), làm Phủ Doãn phủ Thiên Phủ. Năm Nhâm Tuất (1742) được phong tước Bảo Huy bá. Năm Quý Hợi (1743) được thăng chức Quốc Tử Giám Tế Tửu, sau triều đình luận bàn quân công được thăng chức Đông các Đại học sĩ. Năm Ất Sửu (1745) thăng Hữu Thị lang bộ Hộ, phụng thị trước Thừa chính sứ, xứ Hải Dương, lại kiêm giám đốc các xứ: Kinh Bắc, Cao Bằng, Lạng Sơn. Cuối năm ấy vì có quân công được thăng Thiêm đô Ngự sử. Năm Bính Dần (1746) phong Hữu Thị lang bộ Công, năm Đinh Mão (1747) được tiến phong tước Hầu, rồi lại được phong làm Hữu Thị Lang bộ Lại và được thăng Thượng thư bộ Lại. Ngoài ra cụ nhiều lần được nhà vua giao trọng trách hoạch định biên giới với Trung Quốc, đắp đê khai khẩn đất hoang, trông nom giao thông đường sông, đường biển. Người làm quan thẳng thắn trung thực bị bọn xấu gièm pha nên 5 năm không được làm việc trong chính phủ. Đến năm 1758 lại được phục chức rồi làm Tả Thị lang bộ Công, Tả Thị lang bộ Hình, Tả Thị lang bộ Lễ. Năm Đinh Hợi (1767) phong Thượng thư bộ Lễ rồi về trí sĩ.
Về võ: Năm 1740 đánh giặc ở vùng Đông Nam thắng lớn ở Phù Liệt – Thanh Trì. Cuối năm 1740 Giám đốc các đạo quân thuỷ bộ hộ giá vua Nam chinh. Năm 1741 đến phủ dụ và xây dựng đồn luỹ ở Gia Bình, Lương Tài, khi đội quân kỳ binh của vua tới đã bắt được giặc Cừ và đồng đảng, khiến cho trong vùng được bình yên. Cuối năm 1743 đánh bọn thảo khấu Chất (Hoàng Công Chất) nổi lên chống lại triều đình, tụ quân đóng đồn tại Đỗ Xá. Ông được sai đi đánh dẹp quân giặc, ba lần tiến đánh, ba lần giao phong, rồi phụng chỉ về Kinh làm Nhập thị Bồi tụng, ông lại sai các thủ hạ bắt giải bọn tiếm nguỵ, được thăng Hàn lâm viện Thừa chỉ. Năm 1747 bọn phản nghịch Chất lại cùng các tên phản nghịch khác liên kết với nhau, thanh thế rất to lớn, ông phụng sai làm Tán Lý truy đuổi đến tận sào huyệt của chúng, công phá được hơn 10 đồn luỹ, bắt và chém được vài vạn đồ đảng của nghịch Chất, khiến cho miền Đông được bình yên. Năm Canh Ngọ (1750) được theo vua đi Tây chinh, được thăng Công bộ Tả thị lang.
Năm 1753 ông xây Văn chỉ huyện Gia Bình và sắm 5 cỗ kiệu để thờ các bậc khoa bảng. Cũng năm ấy cụ xây nhà thờ Giáp chi hết 600 quan tiền, năm 1755 ông đưa bài vị tổ tiên về thờ và mua 6 mẫu ruộng để Xuân tế, 12 mẫu kỵ điền.
Về đời tư: sinh được 8 người con trai gồm: Cầu là Nho sinh, trúng úy, tước Lai Sơn bá. Thủ là Nho sinh tự thừa, Cư là Nho sinh trúng thức, tự thừa, Kính đậu giải nguyên, làm Đại lí tự thừa, được phong tặng là Đại học sĩ, thần đồng Trạng Nguyên, Hải Quốc Anh Tuấn, tước Khuê Viên Bá, Đương là Nho sinh trúng thức, Diệu là Nho sinh trúng thức, Nghĩa là Nho sinh Dương, Hiệu Tài Bồi, nho sinh Thúng Thức, sinh sống tại quê mẹ ở Yên Cư, Đức Sương, Gia Lộc, Hải Dương. Con gái 9 người là: Vinh, Hòe, Lan, Trình, Hoan, Hân, Duyệt, Huống, Xuyến. (các bà) đều lấy chồng vào những gia đình danh giá, giao thiệp rộng rãi, lại luôn cẩn trọng ghi nhớ phép tắc sửa trị gia đình, có tấm biển hiếu từ tập hợp những lời dăn dạy lưu truyền lại không thể không gìn giữ và coi trọng. Theo sách “Các nhà khoa bảng tỉnh Bắc Ninh” xuất bản năm 2003 cho biết: Trần Danh Ninh có người con gái tên Trần Thị Vinh, lấy chồng là Phan Huy Cẩn, sinh quán ở Nghệ An, trú quán ở Sơn Tây vùng Sài Sơn. Bà sinh được 3 con trai là Phan Huy Ích đỗ Tiến sĩ; Phan Huy Thư đỗ cử nhân và Phan Huy Vượng đỗ Tiến sĩ. Ông Cẩn và bà Vinh cho con trai thứ 2 về quê ngoại. Hiện nay, con cháu ông Thư thành một họ Phan ở Phương Triện và vẫn theo giỗ chạp với họ Trần.
Cuộc đời cụ là một tấm gương sáng cho đời và cho con cháu, bia “Thiếu Bảo tướng công từ đường bi ký” có viết cụ “…bản tính chí hiếu, học rộng nghe nhiều…”. Hơn 35 năm làm quan cụ ngày đêm lo việc nước, tính tình ngay thẳng cương trực, lấy điều cần kiệm xây dựng nếp nhà, lấy điều nhân nghĩa để phúc đức cho con cháu, được mọi người yêu mến tiếng tốt lưu truyền. Đánh giá công trạng của Hoàng giáp Trần Danh Ninh với lịch sử dân tộc, sử gia Phan Huy Chú nhận định: “Ông là người cương quyết, nghiêm nghị, tự giữ cái phong thể của mình, việc giáp binh việc tế lễ việc nào cũng làm được cả. Đến như ở chốn triều đình bàn việc chính trị thì ông rất khảng khái, công bằng, ngay thẳng, lẫm liệt, không ai dám phạm, có khuôn mẫu khí độ bậc danh thần; bấy giờ ai cũng kính phục. Triều đình tặng Thiếu Bảo, tên thuỵ là Mẫn Đạt”.
3.3. Tiến sĩ Trần Danh Lâm (1705-1777):
Trần Danh Lâm hiệu là Khiêm Trai, sinh năm Ất Dậu, người xã Bảo Triện, huyện Gia Định, nay thuộc thôn Phương Triện, là con Trần Phụ Dực, là em Trần Danh Ninh, xuất thân Nho sinh trúng thức. Năm 27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (tên đứng thứ 5) khoa thi năm Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường.
Hoạn lộ của Tiến sĩ Trần Danh Lâm, bên cạnh những chức vụ từng đảm trách như Hàn lâm viện Hiệu lý, Tả hữu thị lang bộ Công, Thị lang bộ Binh, Phó đô Ngự sử, Ngự sử đài, Đô ngự sử, Bồi tụng, Thượng thư bộ Công…thì công trạng của ông thể hiện rõ rệt nhất là quãng thời gian cai quản hai vùng đất biên viễn của quốc gia Đại Việt thế kỷ XVIII.
Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” có chép: Năm 1745, khi ông đương giữ chức Đốc đồng Cao Bằng, có đảng giặc tụ tập, vây hãm trấn thành hơn hai tháng, “trong thành hết lương, Đốc đồng Trần Danh Lâm vỗ về sĩ tốt, hết sức chống giữ, lại tuỳ tiện trích bạc công mộ người đưa thư đến các thổ quan ở phủ Trấn Yên, Long Châu và Bằng Tường nhà Thanh, dùng đồ thưởng trọng hậu đút cho bọn này, hẹn ứng phó giúp về mặt ngoài. Vì thế, ai cũng vui vẻ giúp sức. Họ bắt giữ vợ con giặc, chặn đường hái củi, lấy nước và tải lương. Giặc thấy thế, sợ hãi phải rút lui. Danh Lâm lại đuổi đánh, phá tan được. Bốn châu thảy đều bình định. Lại chiêu tập an ủi dân phiêu tán, cho họ trở về yên nghiệp làm ăn. Tin thắng trận tâu về triều, Danh Lâm được thăng chức hai bậc (từ Hàn lâm viện Hiệu lý, hàm chánh Thất phẩm lên Thiêm đô ngự sử, hàm chánh Ngũ phẩm) phong tước Du Nhạc hầu”.
Năm Bính Dần (1746) ông được triệu về Kinh thăng chức Hữu thị lang bộ Công. Năm Đinh Mão (1747) ông được làm Đốc thị Nghệ An, có công giữ yên trong trấn, ân uy rõ rệt, được triều đình tin cậy. Trong thời gian làm Đốc thị Nghệ An, ông đã tập hợp, khảo cứu và biên soạn “Hoan Châu phong thổ ký” và “Hoan Châu phong thổ thoại”. Đây là hai cuốn sách rất có giá trị trong việc nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử-văn hoá và địa lý của vùng đất Hoan Châu xưa, nay là Nghệ An và Hà Tĩnh.
Năm 1767 thăng chức Tả thị lang bộ Công và bộ Hộ kiêm chức Ngự sử đài Đô ngự sử. Năm 1769 về trí sĩ được thăng Thượng thư bộ Công rồi lại được triều đình mời ra tấn phong Thượng thư bộ hình. Đến năm 1776 Trịnh Sâm lại vời ông ra làm việc ở bộ Lại, ai cũng suy tôn ông là người giữ lòng công chính, ở triều ở quận đều có chứng tích tốt.
Ông còn được biết đến là người giàu lòng hiếu đễ hoà thuận, giàu lòng nhân đức giúp đỡ mọi người, giàu lòng nghĩa hiệp được nhân dân khắp nơi kính trọng. Văn bia còn lưu tại nhà thờ cho biết “…Lớn lao thay! Nay ở sông Thiên Đức thấy công đức của Trần Tướng Công không thể đong đếm được. Tướng công dòng dõi vọng tộc, là ngôi sao sáng của phương Nam, danh hương vùng Giang Bắc, lấy văn chương để chọn đường khoa đệ, lấy trung hậu cư xử trốn triều đình, khắp cõi lục bộ đến tam đô, trong ngoài đều vừa ý, được tuyên dương vì có thành tích, thanh danh khắp vùng, sự nghiệp to lớn trong triều mà chưa thể thuật được hết, tâm tư còn ngổn ngang suy nghĩ đến việc muốn ban phát tiền của dư thừa để giúp đỡ mọi việc. Bấy giờ đương lúc bản huyện tu sửa văn miếu, đại tông xây dựng từ đường, thôn làng xóm ấp lập thần miếu, xây dựng đại đình, đã quyên góp tiền của vật liệu và hàng trăm đồ vật do binh lính để lại, phục hồi lại làng thi thư lễ nhạc…”
Sử gia Phan Huy Chú nhận xét trong 39 năm làm quan “coi giữ hai trấn miền Bắc, miền Nam; tất cả là 6 lần xét công, làm bồi tụng được 6 năm, ở triều ở quận danh vọng rực rỡ…Ông tính thanh liêm, khoan hoà, dễ dãi, không tranh giành với ai, đến đâu dân cũng nhớ ơn…”
Năm Kỷ Sửu ông về trí sĩ và mất năm Đinh Dậu, thọ 73 tuổi. Khi ông mất vua Lê Hiển Tông rất thương xót cử đại thần Lê Quý Đôn cùng gia quyến tổ chức lễ tang và đọc văn tế. Ông được truy tặng Thiếu Bảo tướng công và ban tên thuỵ là Trung Lượng.
Hiện nay ở lăng mộ của ông còn bảo lưu được một tấm bia đá, trên đó có khắc bài thơ “Thư bút ngự tứ” của vua Lê Hiển Tông viết khen ngợi công lao tài đức của Trần Danh Lâm
Dưới đây là đoạn phiên âm và dịch nghĩa bài Thư bút ngự tứ.
Phiên âm:
Thư hương thế phiệt trọng Nho lâm
 Cáp cửu niên lai lý lịch thâm
 Tế lý túc xưng Đường quốc bảo  
 Huệ nhàn hề lận Hán đình câm (kim) 
 Đức giang thắng khái cung di dưỡng 
 Thai lĩnh kì bằng lạc dự trâm 
 Sơ chính chính kim cầu cố thiết 
 Ngu lân chu phụ cánh hà tâm. 
Dịch nghĩa:
Dũng thế phiệt thi thư được làng Nho trọng vọng
 Hai mươi chín năm qua từng trải đã nhiều 
 Làm việc đủ khen là quốc bảo nhà Đường 
 Ban thưởng đâu tiếc bạc vàng như nhà Hán 
 Dải Thiên Đức kỳ thắng giúp di dưỡng 
 Núi Thiên Thai ngạo nghễ vui dự cùng 
 Mới làm chính nên cần giúp rập 
 Hiền nhân phù giúp có hạng nào đâu. 
Xét hành trang cuộc đời và quan hệ gia tộc của Trần Danh Lâm. Ông là con trai của Ngự sử đài Đô ngự sử Diễn quận công, là em ruột của Thượng thư bộ Lễ Trần Danh Ninh, là cha đẻ của danh thần Trần Danh Án cuối thời Trung Hưng. Ông và người anh Trần Danh Ninh cùng đỗ một khoa, cùng làm quan cao chức trọng đồng triều. Qua việc đối chiếu xem xét hai tấm bia có liên quan là Thần đạo bi ký và Thiếu bảo tướng công từ đường bi ký ở xã Phương Triện, huyện Gia Bình, Bắc Ninh (nay là thôn Phương Triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình). Đồng thời đối chiếu với bảng Lục thập hoa giáp, chúng tôi đã cố gắng dựng lại niên biểu cuộc đời sự nghiệp của Trần Danh Lâm, để từ đó tìm ra được khoảng thời gian mà vua Lê Hiển Tông viết bài Thư bút ngự tứ và thời gian lập tấm bia đã nêu rõ trên.
Trần Danh Lâm sinh năm Ất Dậu (1705). Năm ông 19 tuổi (tức năm 1723) đỗ Hương giải. Năm Tân Hợi (1731) đỗ Tiến Sĩ. Năm Đinh Hợi (1767), người anh ruột là Trần Danh Ninh chết, ông đã soạn bia Thiếu bảo tướng công từ đường bi ký, cho khắc và dựng trên từ đường dòng họ mình. Năm Kỷ Sửu (1769), ông về trí sĩ. Năm Đinh Dậu là năm 1777 thì ông qua đời.
Trở lại bài thơ Thư bút ngự tứ của vua Lê Hiển Tông. Đây là bài thơ viết khen ngợi công lai tài đức của Trần Danh Lâm chứ không phải bài thơ tặng khi ông mất hoặc tặng người về hưu trí. Do đó chắc nó đã được viết trước năm Kỷ Sửu (1769). Trong bài thơ có câu “Cáp cửu niên lai lý lịch thâm” ý rằng Trần Danh Lâm đã trải làm quan 29 năm rồi. Sự nghiệp quan trường của ông có thể tình từ năm ông đỗ Tiến sĩ là năm Tân Hợi (1731). Nếu làm phép cộng ta sẽ được số năm tính ra niên đại 1731 + 0029 = 1760. Năm 1760 mang niên hiệu thứ 21 đời Lê Cảnh Hưng bài Thư bút ngự tứ ra đời; hoặc cũng có thể dung sai trước và sau năm 1760 một vài năm. Vua Lê Hiển Tông đã ngự bút viết tặng Trần Danh Lâm bài thơ này. Bài thờ được viết trên giấy hoặc trên lụa, có đóng ấn ngự bảo của vương triều Lê.
Cho đến năm 1777 Trần Danh Lâm qua đời, con cháu ông đã lấy nguyên bản bài Thư bút ngự tứ áp trên tấm bia đá, khắc lại y nguyên thành tấm bia mộ dựng nơi ông nằm để dòng tộc và bà con bản quán chiêm bái, cũng là để cho thiên hạ thấy được tài đức công lao của một con người, một trọng thần đó được Thiên tử ban khen bút ngự. Từ đây cũng cho chúng ta thấy được vì sao tấm bia này lại khác với các bia cùng thời: không có trán bia không có rìa cạnh và không có hoa văn trang trí.
Điểm đặc biệt nữa là 4 chữ Thư bút ngự tứ khắc theo thể Triện Lệ có kích thước, hình thức, nét khắc bố cục khác hẳn với kiểu chữ ở chính văn. Xem xét ô vuông, đường phân cách, kiểu chữ nổi ở bia chúng tôi cho rằng 4 chữ này không phải thủ bút của vua Lê Hiển Tông. Tức là nó không được viết cùng bài thơ khoảng năm 1760 mà được thực hiện năm 1777 khi con cháu Trần Danh Lâm khắc chữ dựng bia.
Điểm cuối cùng chúng ta muốn nói là khẳng định hoàn toàn bản này là ngự bút của vua Lê Hiển Tông. Với kiểu chữ nét viết đẹp bút pháp hài hoà tự nhiên; với 4 chữ thư bút ngự tứ, xuất xứ bài thơ và quan trọng là hình trên văn bia. Dấu hình vuông có rìa cạnh, 4 chữ triện bên trong là 4 chữ “Ngự tứ chi bảo”. Đây là một trong 6 bảo ấn của nhà Lê được làm ra từ năm Thiệu Bình thứ 2 đời Lê Thái Tông (1435) chuyên dùng đóng trên giấy tờ sổ sách của vua. Đến đời Lê Cảnh Hưng vẫn sử dụng con dấu này, nó đã được đóng trên văn bản dưới thủ bút của vua Lê Hiển Tông. Đến năm 1777 đã được con cháu Trần Danh Lâm làm sao y nguyên bản khắc lại trên tấm bia mộ.
3.4 Tiến sĩ Trần Danh Án (1754-1794):
Trần Danh Án hiệu là Liễu Am và Tản Ông, thuỵ Trung Mẫn, sinh năm Ất Hợi người xã Bảo Triện huyện Gia Định, nay thuộc thôn Phương Triện, là con trai Trần Danh Lâm, cháu nội Trần Phụ Dực.
Ông là người thông minh học giỏi, thi Hương đỗ giải nguyên. Năm 33 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp, tên đứng thứ 3) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787), khoa thi cuối cùng triều Lê, đời Lê Mẫn Đế. Sau ông giữ các chức Viên ngoại lang hành Chiếu khám, Nội hàn viện.
Trần Danh Án là nhân vật lịch sử trung thành tuyệt đối với nhà Lê. Khi quân Tây Sơn kéo ra Bắc (cuối năm 1787), vua Lê Chiêu Thống phải chạy lánh nạn sang các vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, sau đó chạy sang nhà Thanh (1789), ông về quê ở ẩn. Tác giả Nguyễn Kim Hưng trong sách Từ điển Văn học (bộ mới) (Nxb Thế giới, HN, 2004) và Nguyễn Thạch Giang trong Văn học thế kỷ 18 (Nxb KHXH, HN, 2004) đều đã nhận định: Mặc dù không cộng tác với nhà Tây Sơn nhưng ông vẫn nhận thấy triều đại này có nhiều điều rất tốt đẹp. Để ghi nhận tấm gương tiết liệt của Trần Danh Án, năm 1859 vua Tự Đức đã xét công trạng, biểu dương sự tiết liệt của các bề tôi tử tiết cuối thời Lê, để gây dựng phong hoá bằng cách cho lập một ngôi đền chung để thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê gọi là Cố Lê tiết nghĩa từ. Ngôi đền hiện nằm ở nội thành Hà Nội, trong văn bia tại đền ghi rất rõ “Trần Danh Án (Tiến sĩ), người Bắc Ninh, phong Tĩnh Nạn công thần, Ngự sử kiêm Phó đô ngự sử, thuỵ là Trung Mẫn”
Ông để lại cho đời sau rất nhiều tác phẩm có giá trị như: Liễu Am thi tập; Tản ông thi tập; Nam Phong giải trào; Bảo Triện trần tiến sĩ thi tập. Ngoài ra ông có bài thơ “Than bần” (Than nghèo) rất nổi tiếng:

Than bần 
 Hà dụng suy thời thức tự nhân ?
 Văn chương tùng hảo bất y bần !
 Mễ ngang phạn hữu tam phần thái
 Cẩm quý y duy thất xích thuần !
 Chuyết phụ vô mưu doanh kế nhật,
 Chuế ông do tự tiếu phù vân.
 Tiền sinh hợp thị Ư Lăng tử,
 Lạc đáo kim sinh hựu tính Trần ! 
 Than nghèo
 Chữ nghĩa thời suy mấy kẻ cần,
 Bệnh nghèo hồ dễ chữa bằng văn .
 Gấm đắt, áo manh đùm mấy mảnh
 Gạo cao, rau độn ngút ba phần 
 Vợ dại, kém xoay sinh kế vụng
 Chồng gàn, quen thói ngạo phù vân
 Kiếp xưa đích thị Ư Lăng tử
 Nay xuống đầu thai lão họ Trần .
4. Đặc điểm của di tích:
Các nhà khoa bảng “kế thế đăng khoa” của dòng họ Trần Danh xã Đại Lai (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) là những nhân vật lịch sử tiêu biểu, có nhiều công lao đóng góp đối với quốc gia Đại Việt thế kỷ XVII-XVIII trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hoá, giáo dục…
Nhà thờ Tiến sỹ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án tuy không còn giữ được đầy đủ các công trình kiến trúc như xưa nhưng tại nhà thờ và hệ thống lăng mộ vẫn còn bảo lưu được nhiều tài liệu hiện vật cổ có giá trị gồm: bia đá, vũ sĩ, voi đá, gia phả, đồ thờ tự… Đây là những tư liệu quý góp phần tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, về địa danh hành chính, về cuộc đời, sự nghiệp của bốn vị Tiến sĩ dòng họ Trần Danh, cũng như phong tục thờ cúng của dòng họ và nhân dân nơi đây từ xa xưa. Qua đó cho biết họ Trần vốn thuộc dòng dõi Hoàng tộc, bốn vị đại khoa dòng họ Trần Danh đều là những danh thần có công lớn với dân với nước. Riêng cụ Trần Phụ Dực và cụ Trần Danh Lâm còn được nhân dân 2 làng Bảo Triện và Ngọc Triện tôn làm phúc thần và phối thờ ở đình.
Bên cạnh đó, từ xưa đến nay nhà thờ bốn vị đại khoa còn là nơi giáo dục truyền thống hiếu học và khoa bảng của toàn gia tộc họ Trần Danh, động viên con em trong gia tộc không ngừng học tập, tham gia xây dựng quê hương, bảo vệ Tổ quốc
V. SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH:
Họ Trần Danh từ xưa đã nổi tiếng trong vùng với truyền thống hiếu học và khoa bảng. Tính từ cụ thuỷ tổ đến nay con cháu trong gia tộc đã kế nghiệp được 18 đời.
Xưa kia, lệ các tiết Đông Chí, Đoan Ngọ, Chính đán, Thường Tiên lễ vật được quy định rất rõ qua hệ thống bia đá lưu tại nhà thờ. Ngày giỗ họ hàng năm được tổ chức vào ngày đông chí, là dịp để con cháu trong toàn thể gia tộc được tề tựu dâng hương bái yết và báo cáo thành tích đã đạt được trong năm qua trước bàn thờ tiên tổ. Ngày hôm trước, buổi chiều con cháu trong toàn gia tộc sẽ cùng nhau đi tảo mộ. Buổi tối, làm lễ cáo yết tổ tiên và tổ chức chạp họ. Sáng ngày hôm sau, đại lễ, ban tế của dòng họ tế 3 tuần, sau đó đến các cụ cao niên và các gia đình trong họ. Đây là dịp để con cháu trong gia tộc gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, tổng kết công tác một năm và bàn các công việc năm tới. Tất cả ý kiến đóng góp của các thành viên trong gia tộc đều được ghi đầy đủ trong cuốn nhật ký của dòng họ. Trong văn bia lưu tại nhà thờ có câu “tổ có công, tông có đức”, các gia đình trong họ Trần Danh luôn chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của đảng và Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá. Hàng năm, theo bình xét của cấp uỷ và chính quyền địa phương, gần như 100% các gia đình trong dòng họ đều đạt gia đình văn hoá, trong số đó có nhiều gia đình tiêu biểu đạt gia đình văn hoá cấp huyện, tỉnh. Đặc biệt năm 2011 dòng họ Trần Danh – Đại Lai được Công an tỉnh Bắc Ninh, công an huyện Gia Bình và UBND xã Đại Lai chọn để xây dựng mô hình dòng họ không có tội phạm và tệ nạn xã hội. Ngày 22/3/2011 diễn ra lễ ra mắt dòng họ Trần Danh không có tội phạm và tệ nạn xã hội. 100% các gia đình trong dòng họ ký cam kết không vi phạm các tiêu chí đã quy định.
Ngoài ngày giỗ họ còn có các dịp sự lệ khác như:
- Ngày 20 tháng Giêng là
ngày xuân tế: Theo lệ xưa thì chỉ có dòng họ nào có người đăng khoa Tiến sĩ mới
được tổ chức xuân tế.
- Tết âm lịch: Vào ngày này, ông trưởng họ thay mặt dòng họ chúc mừng các cụ cao niên trong họ, chúc mừng năm mới, đọc thư chúc tết của chủ tịch nước, của ban liên lạc họ Trần Việt Nam. Sau đó, dâng hương lên các bậc tiên tổ và các vị đại khoa.
 
- Ngày mất của Tiến sĩ Trần Phụ Dực, ngày 14/6 (âm lịch). Đặc biệt, vào năm 2013 toàn gia tộc đã tổ chứcđại lễ 300 năm ngày mất của cụ (14/6/1713-14/6/2013).
 
- Ngày mất của Tiến sĩ Trần Danh Ninh, ngày 27/3 (âm lịch)
 
- Ngày mất của Tiến sĩ Trần Danh Lâm, ngày 18/8 (âm lịch)
 
- Ngày mất của Tiến sĩ Trần Danh Án, ngày 16 tháng Giêng (âm lịch)
 
 
Noi gương sáng của tổ tiên, đời nào con cháu trong dòng họ cũng có người đỗ đạt, thành danh. Để khuyến khích con cháu nối tiếp vươn lên, năm 1994 dòng họ đã phát động xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài. Dòng họ đã bầu ra ban khuyến học bao gồm đại diện các chi, các ông có học hàm học vị trong dòng họ. Hàng năm, trước thềm năm học mới, vào ngày 2/9 (dương lịch) dòng họ tổ chức tổng kết công tác khuyến học, biểu dương khen thưởng các cháu đạt thành tích cao trong học tập đạt học sinh giỏi, thi đỗ Tiến sĩ, Thạc sĩ, đại học, cao đẳng. Vào ngày này, toàn bộ con cháu trong gia tộc tập trung tại nhà thờ nghe các cụ cao niên trong dòng họ nói chuyện về sự nghiệp khoa bảng của dòng họ xưa và nay…Hiện dòng họ Trần Danh ở Phương Triện có 1 Tiến sĩ, 4 Thạc sĩ, 105 cử nhân và rất nhiều sinh viên đại học. Có hơn 200 con em trong gia tộc hiện đang công tác trong các cơ qua nhà nước, xí nghiệp và quân đội. Nhiều người giữ các chức vụ lãnh đạo các Sở ban ngành, lãnh đạo Đảng, chính quyền ở các huyện, các phòng ban và địa phương.
Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, nhớ ơn tổ tiên những con em trong họ Trần Danh dù công tác trên lĩnh vực nào,dù xa hay gần vẫn luôn hướng về nguồn cội, chung tay xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
VI. KHẢO TẢ DI TÍCH:
1. Nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án.
Phương Triện – Đại Lai vùng đất cổ, nơi có nhiều các công trình mang dấu ấn lịch sử và văn hiến như: đình, chùa, các di tích lưu niệm danh nhân…trong số đó có Lăng mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án. Di tích hiện nằm ở giữa làng, giữa một miền quê đông đúc trù mật, xung quanh giáp khu dân cư.
Căn cứ vào tư liệu tại địa phương như bia đá, gia phả cho biết di tích được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII, lúc đó có quy mô đẹp gồm nhiều các công trình tạo thành một cụm di tích như: Đông A truy viễn đàn; Trần Quận công từ (nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực); Thiếu bảo Tướng công từ (Nhà thờ Tiến sĩ Trần Danh Ninh); Vĩnh Dụ đường (Nhà thờ Tiến sĩ Trần Danh Lâm) và quần thể khu mộ có hệ thống bia đá khắc ghi thân thế sự nghiệp của các vị Tiến sĩ trong gia tộc rất đẹp, độc đáo…Trải qua nhiều thế kỷ, những biến đổi của thời gian và chiến tranh tàn phá đã làm cho di tích không còn nguyên vẹn như xưa. Các công trình kiến trúc như Trần Quận công từ, Thiếu bảo tướng công từ, Vĩnh Dụ đường…đều đã bị tiêu thổ trong thời kỳ kháng chiến, nay chỉ còn nhà thờ vị đại khoa Hoàng Giáp, Thượng thư Bảo Huy Hầu Trần Danh Ninh và nhà thờ đại tôn thờ chung của họ và bàn thờ những vị đại khoa
Căn cứ vào gia phả và bia “Truy viễn đàn bi kí” cho biết xưa khu vực này toàn bộ công trình bằng đá lộ thiên gọi là Đông A truy viễn đàn hay Từ đường bệ đá họ Trần. “…Cẩn trọng đắp đàn cho các bậc tiên linh ở xứ Cửa Dưới gọi là Truy viễn đàn, đặt 5 toà đá ở chính giữa để phụng sự …”
Năm 2000, được sự quan tâm của toàn thể con cháu trong gia tộc, nhà thờ được xây dựng có quy mô lớn kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm 5 gian Tiền đường và 3 gian Hậu đường làm theo kiểu chồng diêm 8 mái. Nhà thờ được dựng trên một cấp nền cao hơn mặt sân 45cm. Trước cửa Tiền đường có đôi voi chầu cao 45 cm dài 62 cm, chất liệu đá thế kỷ XVIII. Tại gian giữa của Tiền đường đặt một hương án lớn, sơn son thếp vàng, trang trí chạm khắc tứ linh tứ quý tinh xảo, nghệ thuật, trên bài trí đồ thờ như: bát hương, mâm bồng, ống hương, chân đèn, đài nước gỗ…Phía trên hương án là bức hoành phi陳郡公祠 Phiên âm: Trần quận công từ,Dịch nghĩa: Đền Trần quận công
Cột hai bên là đôi câu đối
義
址
仁
基
肇
培
垂
永
久
春
嘗
秋
祀
奉
事
守
尊
嚴
Phiên âm: 
 Nghĩa chỉ nhân cơ triệu bồi thùy vĩnh cửu
 Xuân thường thu tự phụng sự thủ tôn nghiêm
Dịch nghĩa: 
 Nền nghĩa móng nhân bồi đắp truyền mãi mãi
 Xuân thu cúng tế phụng sự trông coi thật tôn nghiêm
Tại Hậu đường còn bảo lưu nhiều cổ vật như: bia đá, bàn thờ đá, trang trí hoa văn chữ triện chạy xung quanh có niên đại thế kỉ XVIII-XIX, cùng nhiều đồ thờ tự… được bài trí như sau: Trên cùng trong khám gỗ là bia đá “Truy Viễn đàn bi kí” được lập vào ngày tốt tháng mạnh thu (tháng 7) niên hiệu Tự Đức 14 (1861). Theo các cụ cao niên trong dòng họ cho biết: Ban thờ phía trong là nơi đặt ngai bài vị của cụ Thủy tổ và các vị tiên linh trong dòng họ. Hai ban thờ tiếp theo phía ngoài đặt bài vị của 4 vị đại khoa trong dòng họ là Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án. Hai gian bên thờ hậu.
Phía trước toàn bộ công trình kiến trúc này là một khoảng sân rộng được lát gạch Bát tràng, tiếp đến là cột đồng trụ và bức cuốn thư ghi bốn chữ hán Ẩm hà tư nguyên và hai bên là đôi câu đối:
 Hệ xuất trâm anh dịch thế phát huy hào kiệt 
 Gia truyền thi lễ thiên thu điệp hạ vinh danh. 
2. Phần mộ các vị Tiến sĩ:
2.1 Mộ Tiến sĩ Trần Phụ Dực:
Văn bia “Trần Quận công từ bi kí” cho biết cụ “…mất ngày 14 tháng 6 năm Quý Tỵ, hưởng thọ 59 tuổi, táng tại xứ Chỉ Chưởng, xã Hương Triện…”, nay thuộc thôn Hương Triện xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nằm cách Nhà thờ khoảng 3 km về hướng Nam là lăng mộ Tiến sĩ Trần Phụ Dực. Năm 2010 được con cháu trong gia tộc tôn tạo lại có diện tích (4 m x 5 m), bao gồm phần mộ và nhà bia, xung quanh được xây lan can bảo vệ. Phần mộ của cụ được ốp bằng đá trắng, chạm khắc đề tài tứ quý, sóng nước thuỷ ba tinh xảo, nghệ thuật. Nhà bia 2 tầng 8 mái chồng diêm được làm hoàn toàn bằng đá trắng 2 cột trụ chạm rồng cuốn quanh cột
2.2 Mộ Tiến sĩ Trần Danh Ninh:
Nằm cách nhà thờ 400 m về hướng Bắc là lăng mộ Tiến sĩ Trần Danh Ninh hiện nằm trên khu Bãi Sổ của làng (trước kia gọi là Tâm Hoa xứ hay xứ Thù). Bia “Thiếu Bảo tướng công từ” có viết ông “…mất vào giờ Mão, ngày 27 tháng 3 năm đó, khi ấy ông 65 tuổi, được phong tặng là Thiếu Bảo, ban tên thụy là Mẫn Đạt, Khâm sai Lại bộ Tả thị lang, tước Diên Phương bá Lê Trọng Thứ và Hàn Lâm viện hiệu thảo, Nguyễn Quýnh nhận mệnh chỉ cúng tế. Đến giờ Hợi ngày 15 tháng 10 an táng tại cánh đồng xứ Bãi Ngái tại bản thôn, tọa đầu gối hướng nhìn về hướng Nhâm…” Năm Canh Dần 1770 cải cát đưa cốt ngài về xứ Bãi Sổ (Hoa Tâm Xứ) an nghỉ vĩnh hằng. Năm 2007 con cháu trong gia tộc tôn tạo làm theo bình đồ lục giác chồng diêm 2 tầng mái đao cong bằng vật liệu hiện đại, bền vững.
2.3 Mộ Tiến sĩ Trần Danh Lâm:
Hiện nay ở phía Tây Bắc làng cách nhà thờ 500m thuộc khu Cầu Chay là lăng mộ Tiến sĩ Trần Danh Lâm có diện tích (9 m x 4 m). Năm 2012 con cháu trong gia tộc tôn tạo làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái mái đao cong bằng vật liệu hiện đại, bền vững. Bên cạnh phần mộ có một tấm bia, kích thước 68 cm x 98 cm, chất liệu bằng đá có khắc bài thơ ngự bút của vua Lê Hiển Tông viết tặng ông Trần Danh Lâm. Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731) làm quan đời Lê Cảnh Hưng. Bia tổng thể hình chữ nhật đứng, không có trán bia, không có rìa cạnh khắc hoa văn trang trí. Trên đầu tấm bia là 4 chữ đầu đề Thư bút ngự tứ khắc theo kiểu chữ Triện – Lệ xếp theo chiều ngang ngăn với phần chính văn ở dưới bằng một đường viền ngang. Bia không có hàng ghi niên đại, chỉ có 3 chữ Trùng tứ đề viết nhỏ hơn chữ ở phần chính văn, được khắc cách quãng chếch phía dưới cuối bài thơ. Dưới 3 chữ này là hình con dấu khắc vuông bên trong có 4 chữ Triện “Ngự tiền chi bảo”.
2.4 Mộ Tiến sĩ Trần Danh Án:
Nằm cách nhà thờ 400 m về hướng Bắc là lăng mộ Tiến sĩ Trần Danh Án hiện nằm trên khu Bãi Sổ của làng (trước kia gọi là Tâm Hoa xứ hay xứ Thù). Năm 2012 được sự quan tâm của toàn gia tộc, lăng mộ của Tiến sĩ đã được trùng tu tôn tạo. Hiện lăng mộ của cụ được xây dựng trên cấp nền cao hơn xung quanh 50cm, có hàng lan can bao xung quanh. Bên cạnh phần mộ có nhà bia hai tầng tám mái đao cong, bên trong còn bảo lưu được một bia đá ghi lại thân thế sự nghiệp của Tiến sĩ Trần Danh Án. Bia có hai mặt cao 155 cm, rộng 76 cm, dầy 18 cm.
Di tích mộ và Nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án trải thời gian, thăng trầm lịch sử đều được con cháu trong gia tộc gìn giữ và tôn tạo. Các công trình kiến trúc hiện còn tuy không to lớn đồ sộ nhưng trong di tích còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý như: gia phả, bia đá, hoành phi, câu đối, đồ thờ tự…là những di sản văn hoá quý giúp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về các bậc danh nhân khoa bảng dòng họ Trần – Phương Triện, dòng họ nổi danh mấy đời khắp Kinh Bắc và kinh thành Thăng Long cuối thời Trung hưng.
VII. SƠ ĐỒ PHÂN BỐ DI VẬT, CỔ VẬT THUỘC DI TÍCH.
1. Sơ đồ bố trí bệ thờ trong Nhà thờ họ:
1.1. Hậu đường:
VIII. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC CỦA DI TÍCH:
Theo kết quả khảo sát, nghiên cứu về thực trạng của di tích và các nguồn tài liệu, hiện vật còn lưu giữ ở nơi đây, chúng tôi thấy di tích mộ và nhà thờ Tiến sỹ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án có những giá trị cơ bản sau:
Là nơi thờ tiên tổ và các vị Tiến sĩ trong gia tộc di tích là công trình văn hoá tiêu biểu của dòng họ, được khởi dựng vào thời Lê, khoảng thế kỷ XVIII, tu sửa vào thời Nguyễn. Những dấu vết vật chất, tài liệu, hiện vật còn được bảo lưu ở khu di tích và phần mộ các vị Tiến sĩ trong gia tộc đã chứng minh về lịch sử tồn tại của cụm di tích trong lịch sử. Trải thăng trầm của thời gian, đến nay công trình mới được tu dựng lại theo dáng vẻ kiến trúc truyền thống. Từ đường không chỉ đơn thuần là nơi thờ tổ, là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của gia tộc mà còn là nơi tưởng niệm sâu sắc về bốn nhà khoa bảng của gia tộc họ Trần Danh. Tại di tích hàng năm dòng họ đều tổ chức giáo dục truyền thống cho con cháu, và lấy đây là nơi phát huy truyền thống gia tộc, nơi ghi danh khen thưởng các thành viên trong gia tộc đã có thành tích học tập, công tác tốt
Cuộc đời và sự nghiệp của các vị đại khoa dòng họ Trần – Phương Triện không những được gia tộc truyền tụng, bia đá ghi danh mà còn được sử sách ghi danh, ngợi ca.
Di tích mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án là một chứng tích gắn liền với quá trình phát triển vẻ vang của một dòng họ. Hiện nay, trong khu di tích còn lưu giữ được nhiều tài liệu hiện vật quý giá, đặc biệt là hệ thống bia đá giúp cho việc nghiên cứu thân thế và sự nghiệp của các vị đại khoa trong gia tộc, gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trong tiến trình lịch sử.
Hàng năm, di tích mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án đều đón các nhà nghiên cứu đến tham quan, nghiên cứu và tìm hiểu về cuộc đời công trạng các vị đại khoa dòng họ Trần – Phương Triện
Với những giá trị trên, di tích đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh cấp Bằng xếp hạng là di tích Lịch sử – Văn hóa, Quyết định số 1489/QĐ-UBND, ngày 05/10/2009. Nay đề nghị Bộ Văn hoá thể thao và du lịch xếp hạng di tích quốc gia, cho xứng tầm với công trạng của các bậc đại khoa làng Phương Triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
IX. THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH:
Di tích mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án trải thời gian đều được con cháu trong gia tộc trân trọng, giữ gìn và phát huy. Dòng họ đã cử ra một ban di tích gồm những người có trách nhiệm, uy tín trong họ để trông nom hương khói tại nhà thờ và khu lăng mộ các vị Tiến sĩ. Ban di tích theo định kỳ hàng năm vào ngày giỗ họ sẽ báo cáo tình hình và các công việc với dòng họ.
Lăng mộ và nhà thờ các vị Tiến sĩ nằm trong khu đất đã được khoanh vùng bảo vệ theo đúng Luật di sản văn hoá đã ban hành nên tránh được sự xâm lấn đất đai, không để xảy ra hiện tượng mất mát cổ vật.
Đặc biệt, sau khi di tích đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh cấp Bằng xếp hạng là di tích Lịch sử – Văn hóa, năm 2009 để di tích được bảo vệ và phát huy tốt hơn nữa UBND xã Đại Lai đã thành lập Ban quản lý di tích địa phương gồm bẩy thành viên, số quyết định 177-UBND tháng 11, năm 2009. Theo đó đồng chí Phó chủ tịch xã làm trưởng ban, đồng chí trưởng thôn sở tại, trưởng họ làm phó ban và đại diện các chi trong dòng họ làm thành viên. Năm 2013, UBND xã Đại Lai đã ra quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 29/01/2013 thay cho quyết định 177-UBND tháng 11, năm 2009 nhằm kiện toàn Ban quản lý di tích cơ sở. Ban quản lý di tích cơ sở có nhiệm vụ quản lý và bảo vệ toàn bộ các giá trị của di tích như: đất đai, kiến trúc cảnh quan môi trường, cổ vật, tín ngưỡng, ngăn chặn và xử lý kịp thời mọi hành vi làm ảnh hưởng không tốt đến di tích.
X. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH:
Xuất phát từ những giá trị lịch sử, văn hoá của di tích mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án, để bảo vệ và phát huy tốt hơn nữa những giá trị của di tích, chúng tôi nêu ra một số phương án sau:
1. Dòng họ phối hợp với chính quyền địa phương và cơ quan văn hoá trong việc tuyên truyền những nội dung đã được thống nhất trong hồ sơ di tích bằng nhiều hình thức như hệ thống thông tin điện tử, loa phát thanh, đài, báo, tờ gấp…để mọi người trong gia tộc và nhân dân địa phương hiểu rõ giá trị của di tích, từ đó họ sẽ có ý thức hơn trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Trước mắt, gia tộc cần làm biển chỉ dẫn đường đến di tích nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những người đến tham quan, tìm hiểu về di tích
2.Tài liệu chữ Hán trong di tích rất quý giá, đặc biệt là hệ thống bia đá và gia phả, dòng họ nên dịch ra chữ quốc ngữ treo tại nhà thờ để mọi người tới đây hiểu rõ hơn về giá trị của di tích, về cuộc đời và công trạng của các vị đại khoa trong dòng họ.
3. Gia tộc cần có những hình thức động viên, khuyến khích con cháu, đặc biệt là những người thành danh công đức tiền của để trùng tu di tích, bổ sung đồ thờ tự để di tích thêm trang nghiêm, tố hảo. Về lâu dài, dòng họ cần lập quy hoạch tổng thể cho khu di tích .
4. Các tài liệu hiện vật thuộc di tích đã được đăng ký tronghồ sơ khoa học đều phải được bảo quản an toàn. Các công trình kiến trúc bằng gỗ, các tài liệu hiện vật bằng giấy và gỗ của di tích phải được kiểm tra thường xuyên để chống mối mọt ẩm thấp. Cần xây dựng nhà bia để bảo quản hệ thống bia đá ngoài trời.
5. Khi tiến hành trùng tu tôn tạo di tích phải làm đơn lên các cấp có thẩm quyền, khi nào được sự đồng ý của các cấp chính quyền và cơ quan chuyên môn mới được phép tiến hành tu sửa, tránh làm mất đi vẻ đẹp vốn có của di tích. Thực hiện tốt những quy định gồm 9 điều được làm và 7 điều không được làm trong di tích do sở văn hoá thể thao và du lịch Bắc Ninh đã ban hành. Thực hiện nghiêm chỉnh quy định 242/2014/QĐ-UBND ngày 11/6/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh về việc Ban hành Quy định về quản lý di tích, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Thực hiện tốt công văn số 2662/BVHTTDL-DSVH ngày 8/8/2014 của Bộ văn hoá Thể thao và Du lịch về việc đề nghị các di tích trên cả nước không sử dụng biểu tượng, sản phẩm, linh vật không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam trong di tích.
XI. KẾT LUẬN:
Căn cứ nguyện vọng và đơn đề nghị của gia tộc họ Trần Danh; căn cứ công văn số 112/CV-UBND ngày 15 tháng 4 năm 2014, của UBND huyện Gia Bình về việc đề nghị cơ quan chuyên môn lập hồ sơ nâng cấp quốc gia cho di tích mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án.
Căn cứ Luật di sản văn hoá ban hành năm 2001; luật sửa đổi, bổ sung năm 2009 và thông tư 09/2011 của Bộ văn hoá, thể thao và du lịch quy định về nội dung hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh.
Được sự đồng ý của Bộ văn hoá thể thao và du lịch, công văn số 755/DSVH-DT ngày 12 tháng 11 năm 2014, Sở văn hoá thể thao và du lịch Bắc Ninh đã chỉ đạo Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh khảo sát, nghiên cứu di tích nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án. Qua quá trình nghiên cứu trực tiếp tại di tích, chúng tôi thấy di tích mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án mang nhiều giá trị trong đó nổi bật là giá trị lịch sử, lưu niệm danh nhân như phần trên đã trình bày.
Nhằm phát huy truyền thống hiếu học và khoa bảng của các bậc đại khoa cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, noi gương. Với truyền thống “uống nước nhớ nguồn” chắc chắn di tích sẽ ngày càng được nhân dân địa phương và dòng họ quan tâm, giữ gìn ngày càng tố hảo.
Vì vậy, di tích mộ và nhà thờ Tiến sĩ Trần Phụ Dực, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Trần Danh Án xứng đáng được Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng và cấp bằng cho di tích này là di tích Lịch sử.
XI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tài liệu chữ Hán trong di tích.
2. Bắc Ninh địa dư chí – Nxb VHTT, 1997.
3. Văn hiến Kinh Bắc – Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Bắc Ninh, 2002.
4. Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh – Bảo tàng Bắc Ninh xuất bản năm 2003
5. Lịch sử Đảng bộ xã Đại Lai.
6. Lịch sử làng Phương Triện
7. Văn bia Văn miếu Hà nội và Văn Miếu Bắc Ninh
8. Gia phả họ Trần – Đại Lai.
9. Hồ sơ khoa học cấp tỉnh, năm 2009
Hồ sơ trên được biên soạn  với tài liệu tham khảo trên và Hồ sơ Lý lịch di tích của Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh soạn có một số chỉnh sửa, bổ sung của Ban quản lý di tích dòng họ Trần Danh thôn Phương Triện. Trong quá trình biên soạn chắc còn nhiều thiếu sót và có chi tiết chưa hoàn toàn chính xác mong nhận được sự góp ý và bổ sung của các thành viên trong họ nhất là phần sơ lược về phả hệ dòng họ. Ban quản lý di tích dòng họ rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của mọi người trong dòng họ ở khắp mọi nơi.
 Xin được Trân trọng cám ơn./. 
